Với gần 17.000 ca mắc mới mỗi năm, ung thư đại trực tràng vượt ung thư dạ dày, trở thành loại phổ biến thứ 4 tại Việt Nam, theo Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (Globocan).

"Riêng ở phụ nữ, ung thư đại trực tràng xếp hàng thứ 3, sau ung thư vú và phổi", TS.BS Phan Thị Hồng Đức, Trưởng Khoa Nội tuyến vú, tiêu hóa, gan, niệu, Bệnh viện Ung bướu TP HCM, nói tại hội nghị về ung thư đại trực tràng, ngày 19/10.

Tính chung ở cả hai giới, Việt Nam ghi nhận 16.835 ca mắc mới và 8.454 trường hợp tử vong do ung thư đại trực tràng. Năm 2020, ung thư đại trực tràng đứng thứ 5, sau ung thư gan, phổi, vú, dạ dày. Đến nay, 5 loại ung thư có số mắc mới nhiều nhất Việt Nam lần lượt là vú, gan, phổi, đại trực tràng, dạ dày.

Trên thế giới, ung thư đại trực tràng đang xếp thứ 3 với hơn 1,9 triệu ca mắc mới. Riêng tại TP HCM, tổng số ca mới mắc ung thư đại trực tràng - hậu môn ở hai giới và tất cả nhóm tuổi, trong hai năm qua là hơn 2.600 trường hợp.

Theo bác sĩ Đức, bệnh ung thư đại trực tràng có những triệu chứng không nghiêm trọng và thường bị bỏ qua, cho đến khi được chẩn đoán thì đã ở giai đoạn muộn với tỷ lệ tử vong cao. Trong khi đó, nếu phát hiện bệnh sớm, hiệu quả điều trị thường cao.

Thống kê của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, ung thư ở giai đoạn khu trú, mới chỉ phát triển ở đại tràng hoặc trực tràng, tỷ lệ sống trong 5 năm là 91%. Thời gian sống giảm mạnh qua từng giai đoạn. Khi ung thư ở giai đoạn di căn xa, lan đến hạch bạch huyết ở xa hoặc lan đến cơ quan khác như gan, phổi, tỷ lệ sống trong 5 năm chỉ còn 15,7%.

Ung thư đại trực tràng đứng thứ 4 về ca mắc mới tại Việt Nam  第1张

Hoá trị cho bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện Ung Bướu TP HCM cơ sở 2, TP Thủ Đức. Ảnh: Quỳnh Trần

Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư đại trực tràng là tiền sử gia đình có người từng mức bệnh, người mắc đa polyp ruột già, viêm loét đại tràng mạn tính, bệnh Crohn, tuổi tác, chế độ ăn nhiều chất béo, thịt đỏ, ít chất xơ từ rau quả, trái cây... Những người bị polyp đại tràng không chữa trị kịp thời, để lâu ngày sẽ khiến các polyp này có nguy cơ phát triển thành ung thư.

Tầm soát có ý nghĩa quan trọng trong phát hiện sớm ung thư đại trực tràng, bởi bệnh phát triển thầm lặng, hầu như không có triệu chứng sớm. Khi người bệnh có các dấu hiệu như đầy bụng, tiêu chảy, táo bón, hoặc tiêu chảy xen táo bón, tiêu ra máu, mệt mỏi, sụt cân, thiếu máu không l‎ý do, sờ thấy u bụng, thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.

Nhóm cần tầm soát ung thư đại trực tràng là người trên 50 tuổi, người có tiền sử gia đình như bố mẹ, anh chị em mắc bệnh. Có thể sàng lọc phát hiện sớm ung thư đại trực tràng bằng xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân ở những người có nguy cơ cao, người dân từ 50 tuổi trở lên, thực hiện mỗi năm một lần. Đặc biệt, nội soi toàn bộ đại tràng là phương pháp tầm soát tốt nhất hiện nay, nên bắt đầu ở tuổi 50 cùng với xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân. Những trường hợp trước đó nội soi phát hiện polyp và đã cắt cũng cần tầm soát định kỳ theo khuyến cáo của bác sĩ.

Để phòng ngừa ung thư đại trực tràng, cần tăng cường vận động thể chất, duy trì trọng lượng hợp lý. Hạn chế ăn mỡ, thịt động vật, giảm chất béo. Tăng cường ăn các chất xơ và hoa quả tươi hằng ngày. Hạn chế thức ăn muối, lên men, cá khô, nước tương, thịt xông khói. Tránh để những chất gây đột biến gene nhiễm trong thức ăn như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc tăng trọng. Hạn chế lạm dụng rượu, bia và các chất lên men khác.

Lê Phương